Ngày 20/3/2023, Trung tâm Giáo dục và Phát triển (CED) phối hợp với Hội chủ rừng Việt Nam (VIFORA) tổ chức thành công Tọa đàm “Giải pháp quản lý và sử dụng 3,3 triệu ha rừng chưa giao do UBND xã quản lý” với sự tham gia của 70 đại biểu đến từ các hội viên của Hội chủ rừng Việt Nam, đại diện CCKL tỉnh Quảng Nam, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh Thừa Thiên Huế, đại diện các tổ chức xã hội liên quan và các cơ quan truyền thông, báo chí.

DienDanQuanLyRungDo_HN_01

Tại diễn đàn, nhiều câu chuyện đã được chia sẻ và thảo luận liên quan đến vấn đề thời sự hiện nay như: Tình hình thực tiễn về quản lý và sử dụng 3,3 triệu ha rừng và đất rừng chưa có chủ do UBND cấp xã đang tạm thời quản lý hiện nay ở Việt Nam, giải pháp quản lý và sử dụng hiệu quả phần diện tích đất rừng này như thế nào? Thể chế giao đất của ngành tài nguyên môi trường không tương thích với thể chế giao rừng của ngành lâm nghiệp,…

Theo thống kê của TCLN, Việt Nam hiện có 14.745.201 ha rừng. Trong đó: rừng tự nhiên: 10.171.757 ha; rừng trồng: 4.573.444 ha. Phân chia về chủng loại rừng: Rừng đặc dụng hiện có 2.195.725 ha, chiếm 14,8%; rừng phòng hộ có 4.695.514 ha, chiếm 31,8%; rừng sản xuất có 7.853.962 ha, chiếm 53,4%. Hiện cả nước có 167 Ban quản lý rừng đặc dụng, gồm 34 Vườn Quốc Gia, 56 Khu bảo tồn thiên nhiên, 14 Khu bảo tồn loài, 9 Khu dự trữ sinh quyển và 54 Khu bảo vệ cảnh quan được giao quản lý 2.175.082 rừng, chủ yếu là rừng đặc dụng. Cùng với đó, 216 Ban quản lý rừng phòng hộ đang quản lý 3.059.535 ha rừng, chủ yếu là rừng phòng hộ.

Nhiều năm qua, Nhà nước đã thực hiện giao đất giao rừng sản xuất cho các chủ rừng để thực hiện sản xuất trên đất lâm nghiệp. Đến thời điểm này, có 112 công ty lâm nghiệp nhà nước và một số công ty, doanh nghiệp được giao 1.688.803 ha rừng sản xuất; trên 1 triệu hộ gia đình hộ gia đình, cá nhân trong nước được giao 3.101.858 ha rừng, chủ yếu là rừng sản xuất. Nhà nước và các địa phương cũng đang cho các doang nhiệp đầu tư nước ngoài thuê 15.213 ha đất rừng sản xuất để trồng rừng.

Cùng với đó, đã có trên 10.000 cộng đồng hiện đang quản lý và sử dụng (gồm đã giao và tự công nhận) 989.827 ha rừng, chủ yếu là rừng tự nhiên đặc dụng, rừng tự nhiên phòng hộ. Hiện vẫn còn 3.337.770 ha rừng nghèo, rừng nghèo kiệt và đất chưa có rừng, chưa được giao cho các chủ thể, mà vẫn tạm để UBND cấp xã quản lý.

Ngoài ra, có 377.202 ha rừng được giao đối với các tổ chức là lực lượng vũ trang, khoa học công nghệ.

PGS. TS. Nguyễn Bá Ngãi, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội chủ rừng Việt Nam chia sẻ: “Cộng đồng dân cư thôn được giao rừng sản xuất nhưng không có các quyền như các chủ rừng khác, như quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, góp vốn kinh doanh bằng giá trị quyền sử dụng rừng được giao. Hệ lụy là, cộng đồng dân cư chưa thiết tha nhận đất để trồng rừng sản xuất, việc giao đất, giao rừng chậm, đất chưa giao còn nhiều”.

DienDanQuanLyRungDo_HN_02

Ông Hứa Đức Nhị, Chủ tịch Hội Chủ rừng Việt Nam, nêu vấn đề: “Hiện còn 3.337.770 ha rừng nghèo, rừng nghèo kiệt, đất chưa có rừng nhưng chưa giao (không có chủ) hiện tạm để UBND xã quản lý. Những diện tích này ở vùng sâu, vùng xa; nhiều diện tích đang để hoang hóa hoặc đang sử dụng vào các mục đích khác không theo quy hoạch”. Theo đó, nhiều xã có diện tích rừng lớn, có xã chiếm đến 53%, nhưng chưa có cán bộ chuyên trách quản lý bảo vệ rừng.

Việc tồn tại một diện tích lớn đất rừng do UBND xã quản lý trong thời gian dài, mà chưa giao cho cộng đồng dân cư, các hộ gia đình cá nhân và các chủ rừng quản lý, là do thể chế giao đất của ngành tài nguyên môi trường có những khác biệt với việc giao rừng của ngành lâm nghiệp.

Cũng tại Diễn đàn, ông Lê Thanh Dương, đại điện CCKL tỉnh Quảng Nam đã trình bày về tình hình rừng và đất lâm nghiệp do UBND xã quản lý ở Quảng Nam hiện nay. Diện tích rừng và đất quy hoạch lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh là 769.271,48 ha, UBND xã tạm quản lý 277,365.14 ha (chiếm 36%), trong đó có rừng tự nhiên chiếm khoảng 42%, rừng trồng chiếm khoảng 40%, 4% diện tích rừng được giao cho hộ gia đình và cộng đồng dân cư, 4% còn lại là đất chưa có rừng.
Ông Dương nêu ra định hướng của UBND tỉnh về việc cải thiện quản lý diện tích đất rừng do UBND xã quản lý hiện nay. Trước hết về mặt pháp lý, UBND tỉnh sẽ tiếp tục rà soát, ban hành cơ chế, chính sách quản lý rừng chưa giao chưa cho thuê; Lồng ghép sử dụng nguồn ngân sách địa phương với ngân sách TW nhằm hỗ trợ thêm kinh phí để tổ chức bảo vệ rừng (thông qua mô hình hợp đồng với LLCTBVR). Về hiện trạng, tiếp tục rà soát, đo đạc, giải quyết quyền lợi của người dân có đất sử dụng hợp pháp (theo quy định của Luật Đất đai) hiện do UBND xã quản lý, trong đó, xác định diện tích, hiện trạng, chủ sử dụng, nguồn gốc đất và đề xuất hướng giải quyết (giao đất, cấp giấy chứng nhận QSDĐ và tổ chức quản lý theo hướng đồng hưởng lợi). Về công tác quản lý, Giao rừng và đất lâm nghiệp cho các Ban quản lý rừng đối với diện tích liền vùng với lâm phận BQLR. Giao rừng và đất lâm nghiệp cho cộng đồng dân cư thôn quản lý đối với diện tích rừng tín ngưỡng; diện tích trong khu vực cộng đồng sinh sống (Cộng đồng dân cư có thể hợp tác, liên kết với BQL rừng để tổ chức Bảo vệ rừng theo Luật Lâm nghiệp).

Ông Quang Văn Minh, Chủ tịch UBND xã Chiềng Pấc, huyện Thuận Châu, Sơn La, cho hay xã Chiềng Pấc có 74ha rừng, chiếm 1/3 diện tích xã. Hiện xã đã giao một phần đất rừng cho các bản quản lý. Tuy nhiên khi triển khai phát sinh các vấn đề khó khăn: Không thể đo lường cụ thể, các bản có diện tích rừng được giao xâm lấn lẫn nhau. Một số chủ rừng chưa quan tâm sát sao đến việc thăm nom, bảo vệ, chăm sóc. “Vẫn còn mặc định đây là rừng của chung, thù lao cho bảo vệ rừng chỉ hơn 500 nghìn cho mỗi ha/năm, nên nhiều người dân chưa thiết tha với việc bảo vệ rừng”, ông Minh nêu thực tế.

Do đó, ông Minh kiến nghị các Bộ, ngành có giải pháp khắc phục tình hình hiện nay trong quản lý rừng, Nhà nước xem xét nâng mức hỗ trợ để bà con có thêm động lực, cải thiện thu nhập. Đặc biệt là có giấy tờ pháp lý quy định rõ ràng để nâng trách nhiệm của các chủ rừng được giao.

Đại diện chính quyền huyện Sơn Dương, Tuyên Quang nêu vấn đề, hiện nay, các xã chủ yếu giao rừng bằng miệng mà chưa có căn cứ giấy tờ cơ sở pháp lý nào. Điều đó cho thấy thiếu tính chính danh do đó thiếu trách nhiệm đi kèm.

DienDanQuanLyRungDo_HN_03

Tại tọa đàm, các đại biểu đề nghị cần sửa đổi, bổ sung nhiều quy định pháp luật về lâm nghiệp và tổ chức lại quản lý rừng, để tránh tình trạng 3,3 triệu ha rừng mãi ở tình trạng “cha chung không ai khóc”.

  • Thứ nhất, đề nghị bổ sung giao đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ cho cộng đồng dân cư tại các Điều 135 và 136, Luật đất đai.
  • Thứ hai, bổ sung thêm loại đất rừng tín ngưỡng nằm trong đất rừng đặc dụng; bổ sung đất rừng tín ngưỡng được giao cho cộng đồng dân cư tại Điều 137, Luật đất đai.
  • Thứ ba, bổ sung vào văn bản dưới luật của Luật đất đai quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rừng, quyền sở hữu rừng trồng và tài sản khác gắn liền với đất rừng cho cộng đồng dân cư nói riêng và các chủ rừng khác nói chung.
  • Thứ tư, rà lại toàn bộ diện tích rừng do cộng đồng tự công nhận và hiện đang sử dụng.

Các bài trình bày tại Diễn đàn:

  1. Hiện trạng rừng và đất lâm nghiệp do UBND xã quản lý tại tỉnh Quảng Nam – Lê Thanh Dương, CCKL tỉnh Quảng Nam
  2. Tham luận Các vấn đề về rừng và đất rừng do xã quản lý ở Việt Nam – Hứa Xuân Nhị, Chủ tịch Hội chủ rừng Việt Nam (VIFORA)
  3. Tham luận Khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách hợp tác quản lý rừng ở Việt Nam: Khó khăn, Thách thức và Khuyến nghị – GS. TS. Nguyễn Bá Ngãi, Phó chủ tịch – Tổng thư ký Hội chủ rừng Việt Nam (VIFORA)Báo chí đưa tin về diễn đàn